Sức mạnh kinh hoàng của thủy quân Tây Sơn
Với sức mạnh củ thủy chiến, Quang Trung một thời từng nắm trong tay cả một vùng biển phía nam Trung Hoa.
Kể từ khi Hải tặc Viking xuất hiện khuấy đảo thế giới bằng các hải đoàn hùng mạnh đã đánh dấu cho sự ra đời của một lực lượng khó đối phó nhất trên thế giới: Cướp biển. Nạn cướp này đã hoành hành khắp nơi trên thế giới và lên thành đỉnh điểm từ thế kỷ 18, song song với công cuộc khai phá và thực dân hóa của các đế quốc hàng hải Âu châu khi mà thương mại đường biển phát triển nhộn nhịp.
Với vị trí
nằm trên hải lộ quốc tế “con đường gia vị” huyền thoại, Việt Nam cũng ít nhiều
bị ảnh hưởng. Đó cũng là một trong những lý do chứng kiến cho sự ra đời của một
hoàng đế lẫy lừng, cũng là một chúa tể hải tặc khét tiếng châu Á suốt một thời
gian dài: Quang Trung. Thậm chí ngay cả khi nhà Tây Sơn đã mất, thì
các thủ hạ của ông vẫn còn làm khiếp sợ tất cả các quốc gia châu Á với những
tập đoàn cướp biển hùng mạnh do mình tạo nên.
Xây dựng hải quân làm xương sống
Không giống
các vị hoàng đế truyền thống khác của Việt Nam chỉ xây dựng lục quân mà ít chú
ý hải quân, Nguyễn Huệ xây dựng quân đội lấy hải quân làm xương sống. Tư duy
của ông quả thật đi trước thời đại rất xa, khi mà chỉ đến thế kỷ 20 ta mới thấy
một lực lượng hải quân xưng bá thế giới như quân đội Mỹ. Hãy tìm hiểu xem cách
Nguyễn Huệ xây dựng hải quân như thế nào.
Lợi thế địa lý, dân cư
Các tỉnh
Trung Bộ Việt Nam với địa hình bờ biển dài và hẹp chính là được trời phú cho sự
phát triển của kinh tế biển và dĩ nhiên là lực lượng hải quân. Các dân tộc sống
cạnh biển này là nguồn cung cấp quân lực tuyệt vời cho hải quân. Quân Chăm Pa
trong suốt lịch sử của mình hầu như chủ yếu tất công Đại Việt bằng hải quân và
có nhiều lần đã thành công, điển hình là lần tiến quân vào tận Thăng Long vào
đời nhà Trần do Chế Bồng Nga chỉ huy.
Là một lực
lượng quật khởi từ miền Trung, nhà Tây Sơn tuyệt đối hiểu rõ tầm quan trọng của
quân chủng này nên đã ra sức đầu tư xây dựng nó lớn mạnh, vừa để tăng sức cơ
động, vừa chống lại thủy quân của hai nhà Trịnh, Nguyễn. Các hải cảng nước sâu,
dân chúng thạo nghề biển cũng như việc giao thương quốc tế thịnh vượng ngay
trên hải lộ nổi tiếng “Con đường gia vị” đã từng là một trong những nguyên nhân
quan trọng khiến cho nước Chăm Pa khi xưa phồn thịnh một thời.
Trong “Vương quốc Champa, địa dư, dân cư
và lịch sử”, P-B Lafont nhận xét rằng:
“Phải nói rằng ngành thương mại hàng hải đã đem lại
cho Champa một nguồn tư lợi vô cùng lớn lao, bởi vì các tàu bè quốc tế phải
dừng chân tại bờ bể của vương quốc này để tiếp tế lương thực và nhất là Champa
có nhiều hải cảng nổi tiếng như Turan (Ðà Nẵng hiện nay), Kam-ran (Cam Ranh),
Sri Banoy (hải cảng của Vijayapura trong vịnh Qui Nhơn hiện nay), Malithit
(Phan Thiết)… Và các vị vua đầu tiên của Champa đã từng hưởng nền trù phú của
ngành thương mại này là triều đại của Indrapura (Ðồng Dương) mà các tư liệu
khảo cổ học đã từng chứng minh. Kể từ đó, Champa trở thành một quốc gia hùng mạnh về
ngành hàng hải. Năm 1177, hạm đội Champa đã chuyên chở nguyên đoàn quân của
mình để đánh phá Angkor và vào năm 1203, có hơn hai trăm chiếc tàu buồm đã tháp
tùng vị vua Champa đóng đô ở Vijaya để vượt biên lánh nạn (Việt Sử Lược III).
Lực lượng hàng hải này cấu thành những đơn vị hải quân đã giúp vương quốc
Champa gia tăng mạnh mẽ ngành trao đổi thương mại của mình với Trung Hoa, Ấn Ðộ
và các nước Trung Ðông chuyên về nghề buôn bán các sản phẩm”.
Đến khi nhà
Tây Sơn quật khởi, với nhãn quan quân sự xuất sắc của mình, Nguyễn Huệ chắc
chắn phải tận dụng những lợi điểm này để phát triển quân lực Tây Sơn. Lực lượng
của ông có nhiều nét tương đồng với đoàn hùng binh của Chế Bồng Nga khi xưa.
Điều này cũng không có gì lạ khi mà một trong những nữ tướng quân đầu tiên của
quân Tây Sơn lại là nữ vương Chăm Pa, tục gọi bà chúa Hỏa. Đây là kết quả của
một kế sách khôn khéo của anh em Tây Sơn và vai trò đắc lực của Nguyễn Lữ, lúc
bấy giờ là đệ tử theo Bà Chúa Hỏa tu theo Minh Giáo (thờ Lửa) và rất có uy tín
với sắc dân Chăm Pa. Đó cũng là nền tảng để sau này Nguyễn Huệ phát triển hải
quân Tây Sơn.
Sử chép, một
bộ phận người Chăm tại trấn Thuận Thành (nay thuộc tỉnh Bình Thuận) do Kế Pù Tá
đứng đầu ủng hộ và tham gia phong trào Tây Sơn từ rất sớm thì ở một địa bàn
khác là động Thạch Thành (nay thuộc huyện Sơn Hòa và Sơn Thành, tỉnh Phú Yên)
bà chúa Hỏa cũng đem toàn bộ lực lượng của mình gia nhập nghĩa quân khi anh em
Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa. Nhờ được sự hỗ trợ của bà chúa Hỏa, năm Qúy Tị
(1773) quân Tây Sơn đã đánh chiếm được Phú Yên tạo thế ỷ dốc làm bàn đạp mở
rộng địa bàn kiểm soát ra các phủ Bình Khang, Diên Khánh, Bình Thuận.
Kỹ thuật đóng thuyền và kỹ năng hải chiến kiểu bầy sói
Mặt dù thất
bại trước Đại Việt trong các trận quyết chiến chiến lược khiến mất đi quốc gia
của chính mình nhưng thủy quân Chăm Pa là các đối thủ khó chịu nhất trên biển
cả ở vùng Đông Nam Á. Họ là những chiến binh dày dạn kinh nghiệm và có những
chiến tích kiêu hùng cả nghìn năm lịch sử. Thêm vào đó là công nghệ đóng thuyền
thật sự đạt đến đỉnh cao vừa đáp ứng cho chiến trận cũng như cho giao thương
kinh tế. Sau này khi thuộc về Đàng Trong của chúa Nguyễn thì họ chính là trụ
cột đem lại sức mạnh cho thủy quân nhà Nguyễn thuở ban đầu.
John Barrow
trong tác phẩm Một Chuyến Du Hành đến Đàng Trong (A Voyage to Cochinchina) xuất
bản tại London năm 1806 đã ghi chép về chuyến đi của phái đoàn Anh đến Đà Nẵng
năm 1792 với những chi tiết mắt thấy tai nghe của họ như sau:
“Ngành nghệ thuật độc đáo của người Đàng Trong có thể
coi là tuyệt vời vào thời buổi hôm nay là kỹ thuật đóng tàu mà không tuỳ thuộc
chút nào vào phẩm chất và tầm cỡ của loại gỗ dùng trong mục tiêu đó. Những
chiếc thuyền chèo tay để đi chơi quả là khéo léo. Những con tàu đó, dài từ 50
đến 80 feet (15 đến 24 mét), lắm khi chỉ độc có năm mảnh ván ghép lại, mỗi
thanh dài suốt từ đầu nọ đến đầu kia, cạnh ghép bằng mộng, gắn khít khao chặt
chẽ bằng chốt gỗ, buộc với nhau bằng lạt tre chứ không cần phải có sườn hay
khung gỗ nào khác. Mũi và đuôi thuyền ngỏng lên khá cao, chạm khắc thành những
thuỷ quái hình rồng, thuồng luồng, trang tri bằng sơn hay thếp vàng”.
Kỹ năng hải chiến của người Đàng Trong thừa hưởng từ
Chăm Pa cổ vốn có lịch sử hàng ngàn năm giao chiến trên biển. Một số tài liệu
ghi chép cho rằng: “Về kỹ thuật, người Chiêm Thành đã biết dùng
thuyền nhẹ dàn thành thế trận tấn công những tàu buôn từ lâu. Người Chăm có một
đội hải thuyền hùng hậu và những thủy thủ can trường thường liều mạng xông xáo
trên biển cả để buôn bán và chiến đấu. Kiểu mẫu tàu chiến của người Chăm có
hình dáng tương tự như của thuyền vùng Nam Dương mà hiện nay chúng ta còn thấy
dấu vết để lại nơi các thuyền trạm trổ mỹ thuật của người Thái Lan trong những
cuộc đua thuyền. Theo những hình ảnh mà người Âu Châu vẽ lại về chiến thuyền
của Đàng Trong, đó là một loại thuyền chèo tay, mũi ngẩng cao, trạm trổ và
trang trí hoa văn kỳ dị, thân thon và dài đủ biết có thể lướt sóng với tốc độ
cao. Để gia tăng sức chịu đựng khi đụng vào nhau, mũi thuyền dùng trong chiến
đấu thường ghép thêm những thanh gỗ chéo vẫn còn thấy ở các thuyền nơi cửa sông
vùng Quảng Đông.
Do ảnh hưởng của văn minh hải đảo Malaysia, thủy thủ
vùng Đông Nam Á nói chung và thủy thủy người Chiêm Thành nói riêng có thể ra
khỏi bờ bể hàng ngàn dặm chẳng cần hải bàn hay hải đồ, chỉ dựa theo màu sắc của
những đám mây, màu nước biển và độ sóng, giương buồm nương theo sức gió và nhìn
sao để lấy hướng.
Chỉ cần tìm hiểu các loài chim biển và rong biển họ
gặp, người Chăm có thể nhận biết những hòn đảo còn cách xa đến 30 dặm và kiến
thức về biển cả được truyền miệng từ đời này sang đời khác theo kiểu cha truyền
con nối. Phương thức và kỹ thuật đóng thuyền của họ cũng rất độc đáo và người
Việt chúng ta đã kế thừa khá nhiều truyền thống của họ. Những con số chúng ta
còn ghi nhận được cho thấy tốc độ đóng thuyền rất đáng kể cho thấy vào thời kỳ
này miền Nam Việt Nam có những phát triển kỹ thuật đáng kể mà nhiều điều đến
nay vẫn chưa khám phá hết”.
Vì tư duy
chiến thuật khác nhau mà kỹ năng hải chiến và chiến thuật sẽ khác nhau. Các
loại tàu chiến của Trung Hoa thường có nhiều đại pháo và to lớn, chở nhiều quân
nhưng thiếu linh hoạt và khó xoay trở vì vậy chỉ phù hợp tác chiến ngoài biển
theo chiến dịch lớn. Nhưng địa hình chiến đấu ở miền Đông Nam Á lại khác, nó
đòi hỏi những đội tàu với nhiều kích thước khác nhau như thuyền lớn để chở
quân, lương thực, vật liệu và tàu nhỏ nhẹ và linh động đùng để bao vây, tấn
công và xung kích.
Đây cũng là
gần giống với mô hình hải quân hiện đại ngày nay. Khi tháo chạy có thể tỏa ra
ngàn hướng rất khó bị tổn thất, khi tập trung đông lại thì lên đến hàng ngàn
thuyền với sức xung kích khổng lồ. Đúng nguyên tắc “hỏa khí phân tán, hỏa lực
tập trung” hay chiến thuật bầy sói của kỵ binh Mông Cổ xưa, có thể coi đây là
một bầy sói biển. Đó cũng là lý do tại sao thủy quân thời Tây Sơn lại nổi tiếng
đến như thế, phù hợp với phong cách dùng binh của Nguyễn Huệ thần tốc, bất ngờ,
áp đảo, tiến đánh cũng như rút lui rất nhanh.
Hạm đội hải quân mạnh nhất biển Đông
Vào thế kỷ
18, ngoài các nước châu Âu đã hình thành những hạm đội hải quân nước xanh viễn
dương nối tiếng khắp thế giới thì châu Á, đặc biệt Đông Nam Á vẫn chưa có một
lực lượng hải quân đúng nghĩa. Nhưng ngay cả với một lực lượng hải quân hùng
mạnh của các nước Âu Mỹ thời đó, vẫn có một lực lượng mà họ không thể xem
thường, nhất là ở vùng biển Đông. Đó chính là hải tặc.
Thời Trịnh
Thành Công chiếm Đài Loan thì họ chính là một đội quân khét tiếng hoành hành
khắp dải bờ biển từ Nhật Bản đến toàn bộ Đông Nam Á mà các chính quyền địa
phương hầu như bó tay. Sau này Trung Quốc đến thời Khang Hy đã dẹp loạn được
Trịnh Thành Công và bình định Đài Loan nhưng qua đến thời Càn Long thì cướp
biển lại lục tục ngóc đầu dậy, đặc biệt ở vùng Đông Nam Á và phía Nam Trung
Hoa. Tuy nhiên họ lúc này chỉ hoạt động lẻ tẻ vì sau họ Trịnh thì dường như
chưa có ai đủ uy tín để thống lĩnh cướp biển thành một lực lượng mạnh mẽ một
lần nữa. Nhưng ông trời lại cho họ một cơ hội quật khởi lần nữa đến từ…. Nguyễn
Huệ.
Xuất hiện như
một ngôi sao sáng nhất về năng lực quân sự của nhà Tây Sơn, khả năng thiên phú
về thống lãnh hải quân và các chiến thắng tuyệt đối trước các đối thủ tầm cỡ là
một cơ duyên khiến cho hải tặc biển Đông và nhà Tây Sơn nên duyên để tạo ra lực
lượng hải quân vô cùng đáng sợ.
Công nghệ đóng tàu chiến và năng lực sản xuất lớn
Nhà Tây Sơn thừa hưởng công nghệ đóng tàu của Đàng Trong và đầu tư phát triển hạm đội của riêng mình khá dễ dàng. Lực lượng của họ quả thực rất đáng kể khi mà vừa thu dụng tàu thuyền của Hải tặc vừa nâng cấp và triển khai đóng mới. Việc này là một chiến lược khôn ngoan vì tàu hải tặc sẽ đủ để đáp ứng về số lượng, và việc đầu tư nâng cấp diễn ra sau khi hạm đội thành lập sẽ dễ thở hơn là xây mới từ đầu.
“Bất kể đến sự thất bại chung cuộc của cuộc khởi nghĩa
và các nỗ lực của hải tặc nhân danh nó, sự bảo trợ của Tây Sơn đã là một ân
sủng lớn lao cho giới hải tặc. Các chiếc tàu Việt Nam, với các cột buồm cao hơn
80 bộ Anh (feet) và các cạnh sườn được bảo bọc bằng các lớp da bò và lưới, thì
lớn hơn và bền chắc hơn bất cứ chiếc thuyền nào mà hải tặc có thể tự mình kiếm
được. Với đại bác cân nặng tới 4.000 cân Á Châu (catties), chúng cũng được vũ
trang mạnh hơn nhiều” (Dian.H.Murray).
Vũ Khí và trang bị hiện đại
Hải quân vươn
lên thành chủ lực trong thế kỷ 18 cùng với sự áp dụng phổ biến của thuốc súng
và các vũ khí nóng. Khi chưa có súng thần công, đại bác, thuyền bè phần lớn chỉ
dùng như một phương tiện di chuyển cũng chẳng khác gì con ngựa của dân du mục,
không thể nào làm nên chuyện lớn nếu không có cánh cung đi kèm. Vì thế mà suốt
nghìn năm trước đó chỉ có kỵ binh là binh chủng xưng bá trên thế giới.
Khi hải quân
phát triển, chiến thuyền vừa là một phương tiện di chuyển, vừa là phương tiện
tấn công lại cũng là một cái nhà nổi mà sinh mạng của thủy thủy gắn liền với
con tàu. Chính vì thế, việc bảo vệ con thuyền, sống chết với nó đã thành một
truyền thống của hải quân. Hải quân hùng mạnh hay không chính là nhìn vào trang
bị. Và nhà Tây Sơn với tầm nhìn ưu tiên hải quân đã trang bị cho quân chủng này
mạnh tay nhất thời bấy giờ.
Theo như Chaigneau, một sĩ quan hải quân của Pháp được
Giám Mục Bá Đa Lộc tuyển mộ để giúp Nguyễn Ánh thì: “Trước khi
thấy được thủy quân địch, tôi đã coi thường lực lượng này nhưng nay tôi đoan
chắc với ông rằng đó là lầm lạc, quân Tây Sơn đã có những chiến hạm trang bị 50
và 60 đại bác”.
Và theo một sĩ quan khác của nhà Nguyễn thì: “Hạm đội do Vũ Văn Dũng chỉ huy thì lực lượng của ông ta bao gồm 673 chiến thuyền lớn nhỏ, trong số đó có những tàu trang bị đại bác với một thủy thủ đoàn đông hơn những chiến hạm lớn nhất kiểu Tây phương mà quân Nguyễn có. Lực lượng Tây Sơn có đến 9 chiến hạm lớn (vaisseaux), trang bị 60 khẩu đại bác nặng 24 cân Anh (livres) và thủy thủ đoàn 700 người, 5 chiến hạm trang bị 50 đại bác nặng 24 cân Anh, thủy thủ đoàn 600 người và 40 chiếc trang bị 16 đại bác nặng 12 cân Anh và thủy thủ đoàn 200 người.
Như vậy chỉ tính 54 chiến thuyền cỡ lớn này người ta
đã thấy lực lượng lên tới 17.300 quân và 1430 đại bác. Về thuyền cỡ trung và cỡ
nhỏ, cũng theo các giáo sĩ Tây Phương thì Vũ Văn Dũng có dưới tay 93 chiếc
trung bình trang bị 1 đại bác 36 cân Anh và 150 thủy thủ, 300 xuồng (chaloupes
canonnieres) mỗi chiếc 50 thủy thủ và 100 chiếc ghe mỗi chiếc 70 thủy thủ. Tất
cả tổng cộng 35.950 người và 17.300 quân trên các thuyền lớn cho thấy dưới
quyền Vũ Văn Dũng chỉ huy lên đến 53,250 người”.
Lực lượng thủy thủ tinh nhuệ đủ đông để phục vụ hạm
đội
Nếu như tàu
bè và súng ống có thể dùng tiền để mua thì điều còn lại là lực lượng thủy thủ
tinh nhuệ là một điều rất khó để có được trong thời gian ngắn vì binh lính hải
quân muốn tinh thông hải chiến thì không phải trong vài năm mà có được. Nó đòi
hỏi một hệ thống huấn luyện bài bản và đặc biệt là phải kinh qua nhiều trận
chiến.
Chính vì lý
do đó mà một quốc gia muốn có hải quân mạnh phải trải qua mấy chục thậm chí
trăm năm mà đôi khi còn chưa đủ kinh nghiệm. Nhưng Nguyễn Huệ đã giải quyết vấn
đề trên theo một cách mà trước ông và cả sau ông cũng chưa từng có ai thực hiện
thành công. Chính là dùng hải tặc để xây dựng hải quân. Vì vậy hải tặc với kỹ
năng chiến đấu trên thuyền điêu luyện qua các cuộc chiến lớn nhỏ liên miên
chính là nguồn cung dồi dào nhất cho hải quân Tây Sơn. Theo các ghi chép còn
lại như vào thời đó, quy mô của hạm đội Tây Sơn là rất lớn.
Nguyễn
Huệ cho họ sự tín nhiệm và tôn trọng
Cướp biển
cũng đã từng là ngư dân và có thể ngược lại, họ vì nhiều lý do kể cả nghèo khó
mà phải làm cướp. Thời xưa, họ là những thành phần thuộc tầng đáy của xã hội,
hoàn toàn không được xem bình đẳng như một người dân trước chính quyền. Họ hoàn
toàn nằm bên rìa của lịch sử. Chỉ có Nguyễn Huệ là người duy nhất và đầu tiên
quan tâm sử dụng họ và cho họ những điều họ muốn.
Trong nghiên
cứu “Vai trò của Hải phỉ trong chiến thắng Kỷ Dậu” của nhà nghiên cứu
Nguyễn Duy Chính đã chỉ rõ ra rằng: “Thành phần dân chúng sống liên quan trực
tiếp đến biển cả vốn dĩ bị bỏ quên trong một thời gian dài của lịch sử. Đây là
những người làm nghề chài lưới, có khi sống hẳn trên thuyền như một loại nhà
nổi, có khi sống dọc theo duyên hải nhưng sinh nhai chính là đánh cá và sản
xuất những sản vật trực tiếp từ biển khơi như muối, rong biển, hải sản… Họ sống
rất thầm lặng và không được liệt kê vào bốn thành phần căn bản của xã hội sĩ
nông công thương (tứ dân) mà chỉ được coi như những sinh vật dưới con người,
trên cầm thú một tí.
Trên
thực tế, vì ngày đêm chỉ sống quây quần với đồng bọn, gia đình trên một xã hội
nhỏ bé, sinh hoạt chủ yếu của họ rất đơn sơ, tiếng nói cũng hạn chế, phần lớn
chỉ là những từ cụ thể, tiếng gọi, tiếng chửi, hoàn toàn chưa đạt tới mức độ
gọi là văn hóa. Rất hiếm ai biết chữ và vì thế họ cũng khó tiến thân ngoài việc
tiếp tục theo đuổi nghề nghiệp của ông cha và qua lại giữa hai sinh hoạt, đánh
cá và ăn cướp.
Đối với
ngư dân, chiếc thuyền vừa là một nơi cư ngụ, lại vừa là nơi làm việc và cũng là
toàn bộ tài sản của họ. Có thể nói đó chính là thế giới riêng, và vì thế nảy
sinh ra một tình cảm phục tòng tuyệt đối người thuyền trưởng (và cũng là gia
trưởng). Người chủ thuyền phải luôn luôn làm gương cho những người khác, hi
sinh và phải chứng tỏ là mình trội hơn những người chung quanh để tiếp tục giữ
quyền chỉ huy. Chính tập quán tự nhiên đó hình thành một sức mạnh tập thể gắn
bó, sống chết với nhau trong nghề nghiệp cũng như trong chiến đấu, chỉ tuân
phục những người có cùng một cá tính như họ và cũng là điều tại sao họ đi theo
Nguyễn Huệ mà dần dần bỏ rơi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ”.
Nguyễn
Huệ cho họ địa vị, cơ hội đổi đời và 1 mảnh đất sinh sống
Do địa vị
thấp hèn bên lề xã hội nên khi được trưng dụng vào quân đội chính quy chiến đấu
cho nhà vua, và khi chiến thắng còn được phong tước nên họ hoàn toàn trung
thành với Nguyễn Huệ. Một ví dụ dễ thấy nhất chính là các chức quan trong quân
đội Nguyễn Huệ toàn mang danh xưng là Đề đốc, Đô đốc và Đại đô đốc như Đô đốc
Long, Đô đốc Lộc…
Những chức
vụ vốn dĩ là các cấp chỉ huy thủy binh, và những nhân vật nhiều công trạng này
không bao giờ có một tiểu sử rõ rệt, lắm khi chỉ có tên mà không có họ, xuất
hiện một cách bất ngờ rồi không còn thấy trong những biến cố khác. Ngoài ra
Nguyễn Huệ còn cấp cho họ một sào huyệt để tự do giao dịch buôn bán dưới sự bảo
trợ của quân đội trên 1 hòn đảo một khu vực gần biên giới Việt – Hoa gọi là
Giang Bình (Jiangping).
Dian H
Murray trong “Các ảnh hưởng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn trên sự phát
triển của hải tặc Trung Hoa” nhận định rằng:
“Có lẽ
đặc ân lớn lao nhất trong tất cả mọi điều là, trong khi cấp quyền chiến tranh
cho các tư nhân, nhà Tây Sơn đã hợp thức hóa tình trạng hải tặc, và từ đó đã
biến đổi một cách triệt để vị thế của các kẻ hoạt động trong thế giới tội phạm,
nâng cấp chúng từ “tầng lớp cặn bã của biển cả” thành “các thủy thủ trong hải
quân của một Quốc Vương”.
Đột
nhiên, các vụ cướp phá trắng trợn nhất, bởi chúng được tiến hành nhân danh
Hoàng Đế Việt Nam, đã trở thành các công tác hợp pháp của một quốc gia có chủ
quyền. Hậu quả, giới hải tặc giờ đây thu hút các kẻ khác từ thế giới biển cả,
những người nhìn nó như một cách tiến thân, không chỉ về mặt kinh tế, mà cả về
mặt vị thế, quyền hành và uy tín.
Đối với
những kẻ đã trở thành hải tặc, sự gia nhập vào tầng lớp thượng lưu của xã hội
nằm quá lãnh vực khả hữu; chúng có thể mong đợi sống một cuộc đời của những kẻ
“không là gì hết”, bị dằn vặt bởi các nhu cầu và sự bóc lột của các thượng cấp.
Nhưng trong tình đồng đạo hải tặc, tầng lớp hạ lưu này đã có một cơ hội thăng tiến
xã hội. Xuyên qua các nỗ lực của riêng mình và chiến công quân sự, chúng có thể
trở thành “một kẻ nào đó”. Chúng có thể nhận được cấp bậc, danh dự, và sự thừa
nhận, và dành đạt được uy tín đã từ khước chúng ở trên bờ”.
Nguyễn
Huệ là thủ lĩnh tối cao của hải tặc
Đối với hải
tặc Nam Trung Hoa và Đông Nam Á mà nói, sau khi Trịnh Thành Công mất đi và hàng
ngũ họ Trịnh tan rã dưới sự truy quét của hải quân Nhà Thanh thì không còn ai
có đủ uy tín để một lần nữa thống lĩnh hải tặc khu vực này thành một lực lượng
tầm cỡ. Nhưng Nguyễn Huệ và nhà Tây Sơn đã xuất hiện đem đến cho họ một cơ hội
mới.
Cũng trong
công trình kể trên, nhà nghiên cứu Dian H.Murray viết: “Sự bộc phát một cách hết sức đáng kể của những đám giặc bể vào
cuối thế kỷ thứ 18 không phải do vấn đề dân số hay thương mại mà chính là vì
những yếu tố chính trị mới của Trung Hoa cũng như Việt Nam khiến cho hải khấu
đã chuyển biến từ những đám giặc cướp “cắn trộm” (hit-or-miss, small-time
operations) thành những đám hải phỉ “qui mô và chuyên nghiệp” (full-blown
professional piracy). Cho đến cuối thế kỷ thứ 18, hải phỉ tại biển Đông hùng cứ
một vùng lãnh hải rộng lớn trong giấc một tranh bá đồ vương và bảo vệ một khu
vực thương mại sống còn kéo dài từ Nhật Bản xuống tới tận eo biển
Malacca”.
Ông chính là vị “đại ca” mà toàn thể
hải tặc đều kính trọng và phục tùng, chỉ có theo chân ông, họ mới có đất sống
và vinh dự. Họ chỉ có thể hùng mạnh khi tập hợp dưới chân ông.
Nhà nghiên
cứu Nguyễn Duy Chính, trong bài viết “Việt Thanh Chiến dịch và Quang Trung ra
Bắc” nhận định: “Trong nhiều thế kỷ tuy nạn cướp biển có hoành
hành nhưng cũng không trở thành một lực lượng đáng kể vì thiếu một căn cứ địa
để trốn tránh khi bị săn đuổi. Thế nhưng đến cuối thế kỷ thứ 18, Nguyễn Văn Huệ
đã nhìn ra được tiềm năng và vai trò của họ nên đã thu dụng và trở thành một vị
thủ lãnh tập hợp được nhiều nhóm khác nhau, phân chia mỗi nhóm một lãnh bàn
hoạt động, chỉ đạo các chiến dịch và cho họ nơi trú ẩn. Ở cuối thế kỷ 18, đầu
thế kỷ 19, cướp biển ở biển Đông đã tập họp thành một vài nhóm, có đến hàng
ngàn chiến thuyền, tổng cộng đến hơn 7 vạn người“.
Dian Murray
cũng nhận định: “Đối với đám hải khấu lẻ tẻ vùng Quảng Đông,
Phúc Kiến, Chiết Giang và Giang Tô, Nguyễn Văn Huệ được gọi là Đại Ca Việt Nam,
là người bán những đồ họ cướp được và chia cho họ từ 20 đến 40% số tiền. Những
bọn cướp lớn cũng được Hoàng đế che chở vì họ không những được phép neo thuyền
tại vùng biên giới (Trung Hoa và Đại Việt) để tuyển quân và trộm lương thực mà
còn có thể dùng Việt Nam như một “sào huyệt” để rút về. Bọn hải khấu đó coi nhà
vua như chủ nhân của họ vì dưới thẩm quyền của ông họ có thể thu hoạch nhiều
nguồn lợi từ biển cả”.
Nguyễn
Huệ tái cơ cấu hải tặc thành chính quy và có tiền đồ cho tất cả
Vào thời
điểm đó, quả thực Nguyễn Huệ là người duy nhất có đủ tiềm lực để tái vũ trang cho
các toán quân hải tặc trở thành một đạo quân chính quy đúng nghĩa. Dian Murray
viết: “Bất kể đến sự thất bại chung cuộc của cuộc khởi nghĩa và các nỗ
lực của hải tặc nhân danh nó, sự bảo trợ của Tây Sơn đã là một ân sủng lớn lao
cho giới hải tặc. Các chiếc tàu Việt Nam, với các cột buồm cao hơn 80 bộ Anh
(feet) và các cạnh sườn được bảo bọc bằng các lớp da bò và lưới, thì lớn hơn và
bền chắc hơn bất cứ chiếc thuyền nào mà hải tặc có thể tự mình kiếm được. Với
đại bác cân nặng tới 4.000 cân Á Châu (catties), chúng cũng được vũ trang mạnh
hơn nhiều. Nhưng có lẽ điều quan trọng nhất trên mọi thứ là nơi ẩn náu mà chúng
có được từ nhà Tây Sơn. Các tổng hành dinh an toàn và các căn cứ hoạt động được
bảo vệ giúp cho tình trạng hải tặc được nẩy nở cả ở Việt Nam lẫn Trung
Hoa”.
Hơn thế nữa,
Quang Trung cũng là người đã tái tổ chức lại cơ cấu của hải tặc thành các quân
đoàn riêng biệt với phạm vi hải phận khác nhau và phong chức tước cũng như
quyền hạn rất rõ ràng. Hải tặc vào tay ông không còn là cướp mà là một đạo quân
chính quy, có lý tưởng, có tiền đồ.
Theo đó,
quan tước nhà Tây Sơn dùng cho hải tặc có cả 2 loại là tước hàm và chức vị quân
sự. Tước hàm thì thấp có Hầu tước ví dụ như: Hiệp Đức Hầu cho đến cao nhất là
cả Vương Tước cao quý nhất như Đông Hải Vương Mạc Quan Phù, Bình Ba Vương…
Chức vị quân
sự từ thấp lên cao quy định rất rõ ràng lấy đơn vị tổ chức theo từng chiếc tàu
mà nhà Tây Sơn gọi là Tàu Ô (Ô Tào). Thuyền trưởng một tàu gọi là Ô Tào Tổng
Binh, cao hơn có chức Tướng Quân như Ninh Hải Phục Tướng Quân Ô Thạch Nhị, chức
Đại Tư Mã như Đại Tư Mã Trịnh Thất…
Bản lĩnh cá
nhân của Nguyễn Huệ cũng đã hàng phục hết tất cả những tướng cướp sừng sỏ
nhất. Điều quan trọng nhất là ông đã phân chia lãnh hải rõ ràng để việc
quản lý không giẫm chân nhau và đảm bảo quyền lợi công bằng. Nguyễn Huệ đã làm
điều này tốt nhất trong tất cả các ông trùm cướp biển từ xưa đến nay.
Nguyễn Huệ
phân loại hải phỉ thành nhiều nhóm theo tên gọi chẳng hạn như Phượng Vĩ, Tiểu
Miêu, hoặc có khi chia thành nhiều màu cờ như Thanh Kỳ, Hồng Kỳ, Hoàng Kỳ, Hắc
Kỳ, Lục Kỳ… Mỗi nhóm có một vùng hoạt động, những thủ lĩnh được phân bố chặt
chẽ với cấp bậc và quy định thưởng phạt rõ ràng. Các thủ lĩnh cao cấp còn có ấn
tín và phù hiệu để phong tước cho thuộc hạ lập chiến công hay để chiêu dụ những
người có tài.
Sau khi nhà
Tây Sơn bị lật đổ, những nhóm đó đã tự động tập hợp lại để ký với nhau một thỏa
hiệp xác định lại một số quy luật để không rơi vào tình trạng chém giết lẫn
nhau, đó chính là nguyên nhân ra đời của Đế chế hải tặc lớn nhất châu Á thời đó
– Hồng Kỳ Bang do Trịnh Nhất, một chủ tướng hải tặc cũ từng theo Nguyễn Huệ lập
ra. Đế chế này khuynh đảo châu Á và Trung Quốc một thời gian dài. Thời điểm cực
thịnh có hàng mấy nghìn thuyền và hàng vạn thủy thủ.
Để có thể
được xem là một thủ lĩnh hải tặc chân chính, ngoài bản lĩnh võ công cao cường,
đủ đánh bại tất cả thủ lĩnh khác thì còn phải có kỹ năng chỉ huy hạm đội hiệu
quả, thưởng phạt phân minh, điều phối công bằng, phân chia của cải tốt với tất
cả hải tặc dưới trướng. Nguyễn Huệ là vị Hoàng đế duy nhất trong lịch sử của
Đông Nam Á và cả Trung Quốc có thể đáp ứng điều kiện này.
Ông là một
trong những võ tướng sở hữu võ công cao cường hiếm thấy, khả năng chỉ huy hạm
đội tuyệt vời thể hiện qua trận Rạch Gầm – Xoài Mút và hàng loạt cuộc hành quân
đường biển đánh quân Nguyễn và Trịnh. Lãnh địa hải tặc dưới thời ông rất ổn
định về kinh tế. Vì thế dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Huệ, vai trò của hải tặc
biển Đông được nâng cao trong thời đại Tây Sơn. Họ đóng góp rất lớn vào chiến
công thắng quân Thanh năm Kỷ Dậu.
Chính vì cái
ân tri ngộ đó mà 10 năm sau khi nhà Tây Sơn mất sử cũ còn ghi lại những đám hải
khấu này vẫn còn mưu toan đánh vào Phú Xuân để khôi phục lại vương quyền cho
chủ cũ nhưng không thành công. Ngay cả Trịnh Thành Công lúc còn sống cũng không
thể có được sự phục tùng vô hạn của những hải tặc này như Quang Trung đã làm
được. Có thể nói ông là vị Hoàng đế cướp biển duy nhất của châu Á cũng không
ngoa vậy.
Tác
giả Dian Murray trong nghiên cứu về sự phát triển của hải tặc Trung Hoa
dưới sự bảo trợ của Nguyễn Huệ viết: “Sự bảo trợ của Tây Sơn đã nâng
cấp một cách ngoạn mục các kỹ năng chiến đấu của hải tặc đã tham gia chiến
trận. Nơi đó chúng đã thu hoạch được các kinh nghiệm quý báu khi đương đầu với
một đối thủ trực diện, phát triển một mức độ kỷ luật, và học cách sử dụng vũ
khí và kháng cự trên biển. Chúng không còn là các kẻ ngoài vòng pháp luật
chuyên đánh phá cướp bóc nữa.
Sự bảo
trợ của Tây Sơn đã tạo ra các hải tặc với kế hoạch, biết học cách liên kết các
lực lượng và lái thuyền mỗi mùa xuân sang Quảng Đông và trở về Việt nam vào mỗi
mùa thu. Hơn nữa, giờ đây hoạt động với một thời khóa biểu ít nhiều cố định,
chúng cũng đã có thể hợp tác với các thổ phỉ trên bờ. Như viên chức nhà Thanh,
Wei Yuan [Ngụy Nguyên], than phiền sau này, “Khi chúng ta đánh nhau với hải
tặc, khi đó quân thổ phỉ địa phương cướp bóc một cách thản nhiên; và khi chúng
ta đánh nhau với quân thổ phỉ, các hải tặc đến trợ giúp chúng“.
Đạo hải quân
cướp biển lừng lẫy của nhà Tây Sơn không thể nào làm nên chiến công nếu không
có những tướng quân tài giỏi. Ngoại trừ những đô đốc quá nổi tiếng như Võ Văn
Dũng, Ngô Văn Sở, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu… thì những vị đô đốc Hải Tặc
cũng không kém phần nào khi cũng đi vào sử sách với một binh nghiệp hiển hách
dưới thời Tây Sơn. Có thể kể ra một vài vị như sau:
– Trần
Thiêm Bảo không rõ năm sinh năm mất. Vốn là ngư dân tộc Choang, quê ở Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông. Tháng 10-1780, Bảo cùng vợ và hai con đánh cá thì gặp bão, trôi giạt vào Vịnh Bắc bộ. 1783, Tây Sơn bắt cả nhà sung quân. 1785, Bảo có công trong trận đánh Phú Xuân diệt nhà Trịnh nên được phong Tổng binh. Nguyễn
Nhạc từng tài trợ cho Bảo thành lập một hạm đội hùng hậu, nhưng hạm đội này
chưa kịp xuất phát đã bị Nguyễn Ánh cho quân đánh úp tan tành.
1788,
quân Thanh đánh sang, Bảo được
Nguyễn Huệ phong tước Bảo Đức hầu và cấp cho 6 chiến thuyền cùng 200
quân lính, có nhiệm vụ phòng bị quân Thanh xâm nhập theo thủy lộ. Bảo chiêu dụ
thêm được hai hải tặc là Lương Văn Canh và Phàn Văn Tài. Khi Nguyễn Huệ xưng hiệu Quang
Trung, tiến đánh quân Thanh ở Thăng Long thì Bảo được cấp thêm 10 chiến thuyền
để cùng trợ lực. Mạc Quan Phù và Trịnh Thất đã theo về dưới trướng Bảo trong
thời gian này, và nâng đội thuyền của Bảo thành hơn trăm chiếc. Từ 1792, Tây
Sơn lại cho Trần Thiêm Bảo đốc suất bộ tứ Tổng binh (Mạc Quan Phù, Trịnh Thất, Lương Văn Canh và
Phàn Văn Tài) đánh phá duyên hải Trung Hoa.
Cuối
tháng 4-1794, Bảo chận đánh thủy quân Nguyễn Ánh ở Đà Nẵng, phá tan kế hoạch
tiến chiếm Qui Nhơn của Nguyễn
Vương. Bảo được phong Đại đô đốc, thành
tổng đầu lĩnh của hải tặc Hoa Nam. Được
sự giúp đỡ của Tây Sơn, hải tặc Hoa Nam được cơ cấu thành lực lượng tinh nhuệ,
các đầu lĩnh đều được phong chức “Tổng binh Tàu Ô”, thế lực của Bảo bành trướng
càng thêm hùng hậu.
1797,
Bảo dẫn hải tặc bao vây và khống chế được Diên Khánh, Biên Hòa, nhưng năm sau
phải rút quân về.
1799,
Nguyễn Ánh mang quân chinh phạt, Qui Nhơn bị thất thủ. 1800, Trần Thiêm Bảo
mang hơn trăm chiến thuyền cùng với Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng lấy lại được
Qui Nhơn.
Đầu
năm 1801, Nguyễn Ánh dẫn đại quân tiến đánh kinh đô Phú Xuân của Tây Sơn, hải
tặc Hoa Nam cũng tham chiến. Quân Tây Sơn thảm bại, Phú Xuân thất thủ, chiến
thuyền Hoa Nam bị đánh chìm quá nửa, 3 vị tổng binh Mạc Quan Phù, Lương Văn
Canh và Phàn Văn Tài bị bắt. Quang Toản dẫn tàn binh chạy ra Thăng Long, hải
tặc Hoa Nam cũng tứ tán chạy về Tàu.
Thiêm
Bảo biết rằng đại cục đã định, vận mệnh Tây Sơn hết phương cứu vãn nên dẫn theo
hơn 30 lâu la thân tín về Trung Quốc chịu tội. Gia Khánh miễn thứ, cho an trí
Bảo cùng gia quyến ở phủ Nam Hùng (nay là thành Nam Hùng, tỉnh Quảng Đông), là
nơi sâu trong đất liền, cách xa gió biển trùng khơi.
– Mạc
Quan Phù không biết năm sinh, mất năm 1801. Quê quán
huyện Toại Khê tỉnh Quảng Đông. Phù vốn là tiều phu, vào năm 1787, Phù lên núi
đốn củi thì bị hải tặc bắt rồi theo luôn nghề giặc cướp.
Năm
sau, Phù cùng Trịnh Thất dẫn binh quy thuận Tây Sơn, được Nguyễn Huệ phong chức Tổng
binh và phân cho dưới trướng Trần Thiêm Bảo, họ lập căn cứ ở duyên hải miền
Trung An Nam. Từ đó, được
Nguyễn Huệ cung cấp chiến thuyền và vũ khí, cứ tháng 3-4 âm lịch hàng
năm, theo mật lệnh của Nguyễn Huệ, họ lại xua quân quấy nhiễu vùng
biển các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến và Chiết Giang của nhà Thanh, tới tháng
9-10 nhiều giông gió thì rút về An Nam neo đậu.
Năm
1794, Phù đánh bại hải tặc Phúc Kiến hơn 600 tên, lại giết đầu đảng là Huỳnh
Thắng Trường, được ban tước Đông Hải vương. Bọn hải tặc bên Tàu
Trương Á Lục cũng theo đầu quân cho Phù. Đến 1796, Phù đã có 17 tàu chiến, hơn
ngàn lâu la với đầy đủ vũ trang. Mạc Quan Phù và Trịnh Thất là hai người liều
mạng, dám xua quân tấn công cả các cứ điểm trọng yếu của Thanh triều, nên là
mối họa lớn uy hiếp vùng duyên hải của nhà Thanh.
1801,
Nguyễn Ánh vây đánh Phú Xuân, Phù theo phò Quang Toản và bị bắt. Năm sau, Gia
Long sai Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định đi sứ, giao nộp Mạc Quan Phù cùng hai
bộ hạ Lương Văn Canh và Phàn Văn Tài cho Thanh triều (theo tiểu truyện Trịnh
Hoài Đức trong “Đại Nam chính biên liệt truyện”). Cả 3 bị Gia Khánh xử lăng
trì.
– Trịnh
Thất (1760-1802), người Quảng Đông nhưng là con cháu hải tặc Phúc Kiến. Tổ tiên Thất là Trịnh Kiến, bộ hạ của Trịnh Thành Công. 1661, Kiến lui về Quảng Châu Loan (Quảng Đông) để
sinh sống bằng nghề đánh cá. Kiến mất, các con y đều trở thành hải tặc. Vài đời
sau, thì hai cháu chắt của Kiến là Trịnh Liên Phúc và Trịnh Liên Xương đã lên
ngôi đầu lĩnh. Và Trịnh Thất chính là con thứ bảy của Trịnh Liên Phúc.
1788, Thất hội quân với Mạc Quan Phù sang An Nam thần phục Tây Sơn, được phong Tổng binh.
1788, Thất hội quân với Mạc Quan Phù sang An Nam thần phục Tây Sơn, được phong Tổng binh.
1795,
Thất tách ra, dẫn theo hai phó tướng thân tín Huỳnh Đại Hưng và Trần Trường
Phát quay về Tàu, tới trấn Giang Bình (nay thuộc thành phố Đông Hưng trong Khu
tự trị dân tộc Choang ở Quảng Tây) tự lập môn hộ. Trịnh Thất trở thành hải tặc
kiêu hùng, thủ lĩnh Hồng Kỳ bang, thế lực mạnh nhất trong hải tặc Hoa Nam,
chiếm cứ một vùng suốt Quảng Đông tới Vịnh Bắc bộ. Bộ hạ của Thất nhiều tay vũ
dũng thiện chiến, như Ô Thạch Nhị, Trịnh Nhất, thường tấn công cả vào thành trì
của Thanh triều, quan
1801, hay tin các chiến hữu thân thiết của mình là Mạc Quan Phù,
Lương Văn Canh và Phàn Văn Tài bị giết hại. Thất quyết định trở lại . Thất mang theo hơn 200 chiến
thuyền đến Bắc hà ra mắt Quang Toản và được phong Đại Tư Mã. Nhưng trong trận
Đồng Hới, ở cửa biển Nhật Lệ, Thất đại bại và cuốn gói về Giang Bình. Tháng 8
cùng năm, Gia Long được phép của Thanh
triều đã mở nhiều dợt càn quét, công phá căn cứ Giang Bình, Thất bị bắt xử
trảm. Phó tướng của Thất, đồng thời cũng là em chú bác của y là Trịnh Nhất (con
Trịnh Liên Xương) lên tiếp quản làm thủ lĩnh Hồng Kỳ bang
Thời kỳ các nhóm hải tặc bất đồng, lâm vào tan rã.
Sau khi trở về Trung Quốc, các nhóm hải tặc lại tiếp tục rơi vào cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng giữa những bang nhóm từng là đồng minh lỏng lẻo với nhau. Trong số 12 thủ lĩnh hải tặc ở vùng duyên hải Lưỡng Quảng, 5 người đã chết trong cuộc tương tranh khốc liệt kéo dài đến tận năm 1805. Còn lại 7 người là Trịnh Nhất, Ô Thạch Nhị, Ngô Trí Thanh, Kim Cổ Dưỡng (Lý Tương Thanh, Lý Thượng Thanh), Trịnh Lão Đồng (Trịnh Lưu Đường), Quách Bà Đới (Quách Học Hiển, Quách Học Hiến), Lương Bảo (Tổng binh Bảo), đồng ý hòa giải, kết thành liên minh hải tặc.
Trong 6 nhóm, Hồng Kỳ bang dưới quyền thủ lĩnh của Trịnh Nhất có thực lực hùng hậu nhất với từ 600 đến 1.000 thuyền lớn, từ 2 vạn đến 4 vạn hải tặc, cùng với nhiều đầu lĩnh trứ danh, trong đó quan trọng nhất là Thạch Dương (Trịnh Nhất tẩu), một cựu kỹ nữ, và là vợ của Trịnh Nhất, và Trương Bảo Tử, con nuôi của Trịnh Nhất. Dưới sự thống lãnh của Trịnh Nhất, hải tặc Hồng Kỳ bang trở thành một đế chế hải tặc, thao túng toàn bộ vùng biển từ phía Nam Trung Quốc sang đến Malaysia.
Ngày 16 tháng 11 năm 1807, năm Gia Khánh thứ 12, Trịnh Nhất đột nhiên tử vong tại vùng duyên hải Việt Nam. Có thuyết cho rằng do Trịnh Nhất âm mưu tấn công vào kinh thành Huế để trả thù cho vua Quang Trung nhà Tây Sơn, bị thủy quân nhà Nguyễn đánh trả trúng đạn mà chết.
Sau khi Trịnh Nhất chết, góa phụ của Trịnh Nhất thâu tóm mọi quyền lực về tay mình và trao chức thống lĩnh Hồng Kỳ bang cho đầu lĩnh Trương Bảo Tử. Đế chế Hồng Kỳ bang tiếp tục phát triển dưới thời của Trịnh Nhất tẩu cho đến khi bà chịu quy phục nhà Thanh vào năm 1810.
Nếu hải quân Tây Sơn tồn tại thêm 1 thời gian…
Thời Tây Sơn cũng là thời kỳ hoàng kim của hàng hải và hải quân. Các đế quốc biển với năng lực hải quân hùng mạnh từng bước thống trị thế giới. Quốc gia nào có lực lượng hải quân mạnh được coi như làm chúa mặt biển và cũng trở thành cường quốc trên bộ.
Công tước xứ Choiseul, thủ tướng Pháp vào thập niên 1760 đã nói: “Trong tình trạng hiện tại của Âu Châu, thuộc địa và thương mại và nhất là hải quân sẽ quyết định việc cân bằng lực lượng trên đất liền”. Vì vậy với việc xây dựng thành công một quân đội tinh nhuệ có hải quân mạnh mẽ và vũ khí tiên tiến nhất ở châu Á thời đó, nhà Tây Sơn đã làm lệch hẳn cán cân địa chính trị khu vực sang một hướng hoàn toàn có lợi cho đất nước ta.
Vì sao lại nói như thế?
Hãy nghĩ xem, nếu Nguyễn Huệ còn sống thêm 10 năm với một lực lượng như thế ông sẽ thuận lợi thống nhất Việt Nam. Hải quân của ông vốn xuất thân là hải tặc có mạng lưới đóng quân dày đặc khắp biển Đông. Quân nhà Thanh với hải quân lạc hậu coi như đã dâng toàn bộ biển Nam Trung Hoa vào tầm kiểm soát của nhà Tây Sơn.
Không một nước nào trong 10 nước Đông Nam Á dám thách thức quyền thống trị của lực lượng này. Hãy nhìn đế chế hải tặc Hồng Kỳ Bang khuynh đảo châu Á sau này, nên nhớ rằng thủ lãnh của họ đã từng là chiến tướng của Tây Sơn và cách họ chia lãnh địa là cách mà Tây Sơn đã làm.
Với tư tưởng cởi mở và cách mà ông từng làm cho hải tặc, các thương cảng dọc theo bờ biển Việt Nam từ Nam ra Bắc sẽ xuất hiện như nấm vừa nhằm tăng nguồn thu cho hải quân vừa tăng thu nhập cho quốc khố. Các chiến thuyền của Tây Âu sẽ không có cớ để xâm chiếm Việt Nam và cũng không dám thách thức vương triều có kinh tế và quân lực mạnh mẽ như vậy.
Vậy thì bạn thử nói xem ảnh hưởng chính trị của hải quân Tây Sơn có lớn không? Có lẽ chưa đủ lớn để làm cho Việt Nam thành một siêu cường nhưng ít ra cũng sẽ làm tăng vị thế của Việt Nam trong 100 năm sau đó
Nhận xét
Đăng nhận xét